Dưới đây là trích đoạn bản án Austin Instrument, Inc. v. Loral Corp. (1971) cùng với bình luận và giải thích sơ lược của Ngữ. Như thường lệ, sẽ có liên hệ tới luật Việt Nam.
Cũng xin được nói rõ hầu như tất cả các bài trên này là tìm hiểu rất sơ khởi cho nỗ lực nhỏ nhoi giới thiệu về luật Mỹ mà không phải là một nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và kỹ lưỡng về chủ đề có liên quan. Hi vọng rằng các bài như thế này sẽ cung cấp cho mọi người góc nhìn mới về vấn đề có thể là đã cũ, một ý tưởng nghiên cứu mới, hay đơn giản chỉ là một nụ cười vui. Có thể tìm đọc thêm các ghi chép ngắn gọn khác của Ngữ về chủ đề luật hợp đồng trên blog này trong phần Archive. Các bài viết học thuật và nguồn tìm hiểu căn bản về luật hợp đồng của Mỹ được đăng trên chuyên trang Contract Law Chapter.
Bản án này giải quyết vẫn đề hợp đồng vô hiệu do bị cưỡng ép (“duress”) với bối cảnh như sau.
Nguyên cớ (Background)
Năm 1965, Loral được Hải Quân Mỹ (US Navy) trao cho gói thầu sản xuất radars quốc phòng. Để thực hiện gói thầu này Loral ký hợp đồng mua phụ tùng (components) từ Austin (tạm gọi là “Hợp Đồng 65”). Năm 1966, Loral tiếp tục nhận được gói thầu tương tự. Loral tiến hành mời thầu và Austin cũng tiến hành đấu thầu chọn nhà thầu phụ.
Khi biết được Loral định chọn nhà thầu khác giá rẻ hơn, Austin dọa rằng Austin sẽ ngưng giao hàng theo Hợp Đồng 65 trừ khi (i) Loral chấp nhận trả giá cao hơn cho số phụ tùng đã giao và cả chưa giao theo Hợp Đồng 65 và (ii) cho Austin thắng gói thầu năm 1966 với giá mới.
Loral đành chấp nhận. Austin giao hàng sớm. Loral sản xuất đúng hẹn cho quân đội. Xong xuôi rồi Loral nói không chấp nhận việc tăng giá như vậy. Hai bên kiện nhau. Austin thắng kiện ở hai cấp tòa thấp hơn trước khi đưa lên cấp tòa cao nhất bang này.1
Ý tòa (Opinion)
Tòa tuyên Loral thắng, được đòi lại tiền đã trả cho phần tăng thêm do tăng giá trên cơ sở hợp đồng (thỏa thuận chấp nhận tăng giá) vô hiệu do cưỡng ép:
We find without any support in the record the conclusion reached by the courts below that Loral failed to establish that it was the victim of economic duress. On the contrary, the evidence makes out a classic case, as a matter of law, of such duress.
Tòa giải thích chung:
A contract is voidable2 on the ground of duress when it is established that the party making the claim was forced to agree to it by means of a wrongful threat precluding the exercise of his free will.
Nhưng tòa nhấn mạnh:
[A] mere threat by one party to breach the contract by not delivering the required items, though wrongful, does not in itself constitute economic duress. It must also appear that [1] the threatened party could not obtain the goods from another source of supply and [2] that the ordinary remedy of an action for breach of contract would not be adequate.
Từ đây tòa áp luật vào thực tế của vụ việc (“the facts are virtually undisputed, nor is there any serious question of law. The difficulty lies in the application of the law to these facts”) để từ đó giải thích rằng Loral đã bị cưỡng ép do không thể tìm được nguồn hàng khác thay thế. Ngoài ra, trong tình thế ấy, Loral cũng đã không thể lựa chọn khước từ yêu cầu của Austin và để rồi sau đó thì kiện Austin vi phạm Hợp Đồng 65 được. Lý do là, có làm vậy đi chăng nữa cũng khó mà khắc phục được thiệt hại của Loral.
Tòa xét đến mối quan hệ giữa Loral và chính quyền, rằng là phần lớn hoạt động kinh doanh của Loral là với Nhà nước (dạng như nhà thầu quốc phòng chuyên nghiệp). Vi phạm gói thầu năm nay sẽ mất đi cơ hội trúng thầu năm khác. Cho nên mới nói việc Austin đe dọa không giao hàng đã tước đi “free will” của Loral.
It is manifest that Austin's threat — to stop deliveries unless the prices were increased — deprived Loral of its free will. As bearing on this, Loral's relationship with the Government is most significant.… Moreover, Loral did a substantial portion of its business with the Government, and it feared that a failure to deliver as agreed upon would jeopardize its chances for future contracts.
Tòa cho rằng Loral cũng không thể xin Chính phủ gia hạn được vì làm như vậy vừa sợ ảnh hưởng uy tín của Loral vừa không chắc chắn là các nhà thầu phụ khác có giao hàng đúng hạn không nữa.
We find unconvincing Austin's contention that Loral, in order to meet its burden, should have contacted the Government and asked for an extension of its delivery dates so as to enable it to purchase the parts from another vendor. Aside from the consideration that Loral was anxious to perform well in the Government's eyes, it could not be sure when it would obtain enough parts from a substitute vendor to meet its commitments.
Với lại, các nhà thầu mà Loral liên lạc chỉ đồng ý bắt đầu giao hàng chứ không hứa là sẽ giao đủ hàng trong khi việc giao hàng trễ là rất phổ biến khi đó. Đặc biệt, hàng hóa Loral sản xuất là phục vụ nhu cầu quốc phòng.
The only promise which it received from the companies it contacted was for commencement of deliveries, not full supply, and, with vendor delay common in this field, it would have been nearly impossible to know the length of the extension it should request. It must be remembered that Loral was producing a needed item of military hardware.
Tòa cũng nhắc rằng vi phạm của nhà thầu phụ không giải trừ trách nhiệm của nhà thầu chính:
Moreover, there is authority for Loral's position that nonperformance by a subcontractor is not an excuse for default in the main contract. (See, e.g., McBride & Wachtel, Government Contracts, § 35.10, [11].)3
Còn về vấn đề tìm nguồn hàng khác:
Loral, as indicated above, also had the burden of demonstrating that it could not obtain the parts elsewhere within a reasonable time, and there can be no doubt that it met this burden. The 10 manufacturers whom Loral contacted comprised its entire list of "approved vendors" for precision gears, and none was able to commence delivery soon enough. As Loral was producing a highly sophisticated item of military machinery requiring parts made to the strictest engineering standards, it would be unreasonable to hold that Loral should have gone to other vendors, with whom it was either unfamiliar or dissatisfied, to procure the needed parts. As Justice Steuer noted in his dissent4, Loral "contacted all the manufacturers whom it believed capable of making these parts"[…], and this was all the law requires.
Loral cũng không thể lựa chọn là cứ để cho Austin vi phạm Hợp Đồng 65 (không giao số hàng còn lại đúng hạn) và sau đó kiện đòi Austin bồi thường được. Lý dó là kể cả như vậy Loral cũng phải mua hàng từ đâu đó và có thể vẫn phải chịu tất cả những hậu quả nói trên (vi phạm hợp đồng với quân đội, mất uy tín, mất gói thầu tương lai…):
It is hardly necessary to add that Loral's normal legal remedy of accepting Austin's breach of the contract and then suing for damages would have been inadequate under the circumstances, as Loral would still have had to obtain the gears elsewhere with all the concomitant consequences mentioned above.
Cho nên Loral không có lựa chọn nào khác ngoài việc cứ đồng ý với việc tăng giá sau đó đòi lại phần đã phải trả thêm.
In other words, Loral actually had no choice, when the prices were raised by Austin, except to take the gears at the "coerced" prices and then sue to get the excess back.
Vấn đề này được xử lý trong Mục §§ 175 và 176 của Restatement (Second) of Contracts như sau:
(1) If a party’s manifestation of assent is induced by an improper threat by the other party that leaves the victim no reasonable alternative, the contract is voidable by the victim.
A threat is improper if (a) what is threatened is a crime or a tort, or the threat itself would be a crime or a tort if it resulted in obtaining property, (b) what is threatened is a criminal prosecution, (c) what is threatened is the use of civil process and the threat is made in bad faith, or (d) the threat is a breach of the duty of good faith and fair dealing under a contract with the recipient.
Điều 127 BLDS có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, cưỡng ép như sau:
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do [… bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
(Ở đây có thể thấy câu chữ của BLDS không chuẩn, trên là “tham gia” giao dịch còn ở dưới lại là “thực hiện” giao dịch. Nếu tham gia (tức là giao kết) mà chưa thực hiện thì hợp đồng có vô hiệu không?)
Nếu áp quy định này về một tình huống tương tự như tranh chấp nói trên thì có thể nói là phần thỏa thuận tăng giá bị vô hiệu do Loral buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tài sản của mình.
Tuy nhiên, Đ127 còn chung chung hơn so với án lệ và Restatement (Second) of Contracts của Mỹ ở chỗ là Đ127 chưa tính đến liệu việc phải tham gia/thực hiện giao dịch có phải là lựa chọn duy nhất của bên bị ép buộc trong tình thế đó không. Nếu bên bị ép buộc còn có cách khác để tránh hay giảm thiệt hại thì sao?
Ngoài ra, “hành vi cố ý” theo Đ127 có thể là một hành vi mà bên đe dọa được phép làm theo luật không. Chẳng hạn, vì chồng dọa vợ rằng nếu vợ không ký vào thỏa thuận phân chia tài sản thì sẽ báo cho cơ quan thuế vụ về việc vợ trốn thuế nhiều năm nay, thỏa thuận phân chia tài sản đó có bị vô hiệu không?
Nghe đồn rằng chiến thắng của Loral trong vụ này còn nhờ vào việc trước khi trả lời Austin (bên bán), Loral (bên mua) có nhờ luật sư soạn một bức thư đến Austin như sau:
We have feverishly surveyed other sources of supply and find that because of the prevailing military exigencies, were they to start from scratch as would have to be the case, they could not even remotely begin to deliver on time to meet the delivery requirements established by the Government. […] Accordingly, we are left with no choice or alternative but to meet your conditions.
Hầu như tất cả câu chuyện đã được gói trọn trong mấy lời ngắn gọn này. Đúng là câu chữ của luật sư!
Hệ thống tòa của bang New York khác với nhiều bang khác. Court of Appeals of New York mới là cao nhất chứ không phải là Supreme Court của bang:
Thẩm phán của tòa này gọi là “Judge” còn tòa kia lại gọi là “Justice”, cho nên ở New York Judge cao hơn Justice.
“Voidable” có nghĩa là “có thể vô hiệu theo yêu cầu của một bên” (ta gọi là “vô hiệu tương đối”) khác với “void” (ta gọi là “vô hiệu tuyệt đối”).
“Authority” ở đây nghĩa là một cuốn sách hay tài liệu nào khác có uy tín làm trích dẫn để bảo vệ cho lập luận pháp lý (a citation as from a book or file used in defense or support) chứ không phải là “cơ quan nhà nước” như ta thường hiểu. Tòa Mỹ vẫn thường trích dẫn sách và bài viết của luật sư và giáo sư luật, ví dụ như bản án này có viện dẫn các treatises nổi tiếng về M&A, bao gồm cuốn của GS Sam Thompson.
“Dissent” khi mà một trong những thẩm phán tham gia xét xử (hoàn toàn) không đồng ý với phán quyết được thông qua. Còn nếu đồng ý với quyết định nhưng không đồng ý với lập luận, cơ sở để đưa ra quyết định đó thì thẩm phán đó sẽ “concur”.